“We are half- hearted creatures, fooling about with drinks and sex and ambition when infinite joy is offered to us, like an ignorant child who wants to go on making mud pies in slum because he cannot imagine what is meant by an offer of a holiday at sea. We are far too easily pleased.”
Đã gần hai năm tôi ngưng lại các chuyến đi để tập trung ở nhà xây dựng Kat Studio trong giai đoạn chuyển mình quan trọng. Quan điểm của tôi về công việc luôn xoay vòng trong ba từ khóa: “outwork, mass, volume”. Tôi không giỏi làm business nên tôi dùng sức, dùng thời gian ngủ và cuối tuần của mình để làm việc, với niềm tin rằng: không biết thì phải làm thật nhiều để biết, muốn đúng thì phải biết mình sai thật nhanh để quay đầu.
Và tôi bị cuốn vào tình trạng không một giây ngưng nghỉ suy nghĩ. Tôi suy nghĩ về công việc của mình mọi lúc, mọi nơi, tôi giải quyết vấn đề trong cả giấc mơ, tôi thức dậy cảm giác như chưa được ngủ, tôi tăng cân dù cố gắng giữ chế độ tập luyện đa dạng và ăn một ngày chỉ hai bữa. Tệ hơn, những cố gắng của tôi có vẻ chỉ hiệu quả một phần rất nhỏ.
Một ngày giữa tháng 9, tôi ngưng lại mọi thứ để bay sang Greenland. Một tháng rưỡi là thời gian tôi cho phép mình dừng lại để quay mặt sang hướng khác, hít thở không khí không có mùi khói xe, nghe âm thanh của chim trời, ngửi thấy mùi băng giá và nếm vị mặn của biển cả mênh mông.
Tôi leo lên chiếc thuyền buồm mang tên Tecla, khi nó vừa cập bến ở Nuuk.

Như bao lần khác, tôi mang một cái đầu trống rỗng đi, không tìm hiểu trước, không cần biết mỗi ngày đi đâu, để thấy vạn vật với con mắt không định kiến và hạn hẹp. Tecla tuyệt đẹp như trong phim ảnh, với lốm đốm những vết rỉ sét của thời gian, những cánh buồm trắng ngà loang lổ đầy vết chắp vá cột gọn trên thân tàu, hai cột buồm thẳng đứng, và một thanh gỗ mũi tàu bị gãy được cột một bên hông, bánh lái, dây xích, mỏ neo, những ròng rọc, vài bộ phận tôi không biết gọi tên, và một chiếc dinghie màu đen chất gọn trên boong tàu. Bao nhiêu đó thứ, hơn một thế kỷ từ 1915, Tecla trải qua không biết bao nhiêu hải trình vòng quanh thế giới, từ Bắc Băng Dương xuống tận Nam Cực xa xôi, từ Alaska biên giới cuối cùng đến cả những miền biển ấm Thái Bình Dương rực rỡ. Ai mà biết được nó đã chứng kiến những gì và trải qua biết bao cơn bão không khoan nhượng ngoài đại dương thăm thẳm. Và ngày hôm đó, tôi trở thành một phần tí hon trong ký ức trăm năm của nó, trong hành trình từ các vịnh hẹp đẹp như mơ của phía tây Greenland êm đềm đến Bắc Đại Tây Dương dữ dội, để qua đến bờ biển Iceland ma mị và kiêu kỳ.
Bài viết này không kể lại chuyến đi “ba phần tươi vui bảy phần say sóng” của tôi. Cái quý giá nhất tôi nhận được trong chuyến đi này chính là được gặp bốn thủy thủ đoàn của Tecla, những con người đã thay đổi phiên bản lạc lối của tôi chỉ trong một thời gian ngắn ngủi. Tôi muốn kể cho bạn về họ.

Trích dẫn đầu bài viết của C.S Lewis trong The Weight of Glory – như một bàn tay vỗ nhẹ vào tôi khi đang mê man trong suy nghĩ điên cuồng về công việc. Nó khiến tôi đặt lại câu hỏi “mình muốn gì với tất cả những hard work này?” May mắn cho tôi, khi thực sự muốn biết điều gì đó, câu trả lời luôn ở trước mặt.

Thuyền trưởng Gijs là một người Hà Lan (không hề cao lớn như trung bình những người Hà Lan khác) với vẻ mặt chỉ có hai trạng thái: nghiêm nghị đăm chiêu, và một giây sau có thể cười đểu cáng với câu đùa nào đó mà ảnh mới nghĩ ra trong cái đầu tinh quái của mình. Anh mở màn bằng một bài chào đón với cái kiểu nói chuyện của một người hướng nội và không giỏi nói nhiều trước đám đông. Tôi chỉ nhớ đúng một câu: “I hope what we do here will somehow inspire you…”vì có lẽ lúc đó tâm hồn tôi thực sự đang thèm khát một nguồn cảm hứng nào đó sau những tháng năm nhốt mình trong công việc, có khi đơn giản chỉ cần nguồn cảm hứng để thấy thực sự được sống một lần nữa, giữa đất trời thiên nhiên nguyên thủy bao la này. Gijs có một bạn gái lâu năm mà anh buột miệng gọi là “vợ”, cùng hai đứa con nhỏ ở quê nhà Hà Lan. Cuộc sống dong duổi cùng Tecla trong những hải trình vạn dặm không cho phép anh được ở bên gia đình. Bạn có tưởng tượng được cuộc sống đó không? Tôi cá là chúng ta đã được ban cho quá nhiều tiện nghi và thuận lợi/ hoặc ta chọn cuộc đời như vậy – nên cuộc sống như Gijs làm chúng ta “sợ”, như cách mà chúng ta sợ đủ thứ trên đời: sợ mất việc, sợ hết tiền, sợ xa gia đình, sợ bị phản bội, sợ đói, sợ lạnh, sợ bị từ chối… Quan sát Gijs làm việc với những cử động linh hoạt và tháo vát, cách đôi chân anh đứng vững trên tàu dù nó có nghiêng 45 độ vì sóng, những đêm anh lái tàu từ 0h đến 6h sáng và lặp lại từ 12h đến 6h tối, một mình dù mưa gió bão bùng (vì nhóm tôi đăng kí trực lái tàu chung với anh đều nằm bẹp dí vì say sóng cả tuần vượt biển North Atlantic). Không chỉ làm việc ở ca trực, thuyền trưởng là người chịu trách nhiệm với trăm thứ trên tàu. Gijs ngủ rất nông, trong lúc anh ngủ chỉ cần có một tiếng động bất thường là anh sẽ nhảy phóc lên boong xem chuyện gì. Ngoài lái tàu anh còn dọn dẹp, chỉ dẫn mọi người các thao tác kéo buồm, lái dinghie đưa mọi người đi hiking các vịnh hẹp, chạy tới lui lo các việc không tên, là thợ máy khi thuyền cần, mỗi khi tạt ngang qua bếp anh lại nhanh tay với lấy vài cái biscuits hay thanh chocolate bỏ vào miệng ngậm xong lại chạy phắt đi. Luôn tay luôn chân như vậy mà tối đến có lần tôi còn nghe anh nói chuyện giảng giải tâm tình cho hai thành viên genZ còn lại là Jasmine và Daniel về cách micro manage là gì và phải làm sao, tôi cứ tủm tỉm cười với sự “vất vả cồng kềnh” của anh. “jack of all trades, master of none” là câu anh tự nói về mình khi ai đó đang hỏi thăm lúc anh lúi húi ở phòng máy. Tôi tự thấy mình cũng chẳng khác gì với núi việc chồng chất đủ thể loại, nhưng tôi thua kém hẳn về góc nhìn thả lỏng của anh với những câu bông đùa trong hoàn cảnh không như ý muốn, và cách anh tuyệt đối nghiêm túc trong sự không nghiêm túc của chính mình.
Tôi quan sát Gijs, tự hỏi tại sao anh chọn làm việc này và sống cuộc đời đó?
Câu hỏi đó quay trở lại khi tôi quan sát Anna, cô đầu bếp người Ý gốc Ukraine. Gijs có lần mô tả phần chìm của tảng băng nổi nào đó trên biển có thể cao 2 mét – “cao bằng Anna” – với cái giọng đểu cáng của anh. Anna cũng chẳng vừa. Có lần tôi và Mai đang đứng ngắm hoàng hôn thì một tảng băng trôi đập thẳng vào mạn thuyền khiến Gijis phải ngó xuống dán mắt vào tảng băng để đảm bảo nó không gây chuyện, lúc đó Anna đã “nhanh trí” dí cái loa nhỏ xíu của cô vào tai tôi và Mai, mở nhạc Titanic thật lớn và cười nghiêng ngả.

Căn bếp trên tàu gọi là Galley. Galley của Anna diện tích khoảng 2 mét rưỡi vuông, chỉ đủ chỗ cho cô đứng. Mỗi khi ai đó chui vào đổ rác cô sẽ phải đi ra, không hẳn do cô to cao, mà do căn bếp rất nhỏ gọn. Vậy mà cô nấu ăn không bữa nào trùng món bữa nào, với các nguyên liệu và dụng cụ xếp gọn và chặt đúng vị trí. Anna có lần cho tôi xem cánh tay đầy sẹo phỏng của cô vì khi Tecla vượt đại dương với những cơn sóng không khoan nhượng, căn bếp với những gì cô đang nấu sẽ trở thành một cái máy giặt đúng nghĩa, quay cả Anna lẫn bao nhiêu súp, chảo dầu, dao thớt lộn nhào với nhau. Vậy mà, Anna đã làm việc này hai chục năm trời, với tiếng cười há há đặc trưng ồn ào không thể nào quên mỗi khi trò chuyện đùa giỡn cùng mọi người. Anna chỉ cho tôi cách thả lỏng và chấp nhận sự suffer khi say sóng như một phần của chuyến đi, không kháng cự lại nó, không sợ hãi mà chào đón nó. Lần tôi thấy Anna cười nhiều nhất là khi thuyền căng buồm để hoàn toàn dùng sức gió lướt đi trên những con sóng chòng chành tưởng như không bao giờ ngưng. Đó là vẻ đẹp của thuyền buồm trên biển lớn, một sự tĩnh lặng không lẫn vào đâu được, tạo ra bởi những âm thanh nền từ gió quật vào buồm, từ sóng đánh mạn thuyền lúc rỉ rách như tiếng cười khúc khích, lúc lại đập vào mạnh đến nỗi nghe như tiếng giận giữ của những mảng kim loại lớn va vào nhau. Mỗi khi thuyền gặp đàn cá voi, Anna cũng sẽ chạy nhanh lên boong tàu để ngắm cùng tất cả mọi người, cô đưa điện thoại cho tôi xem cả những đàn cá voi ở Nam Cực mà cô đã được tiếp cận rất gần khi chúng bơi đùa giỡn dưới đáy thuyền Tecla, mắt cô sáng rực khi kể chuyện về những lần đi qua đó, cô bảo đã đi thuyền qua Nam Cực chục lần rồi mà vẫn muốn quay lại nữa. Chợt hình dung Anna với cảnh chiến đấu cùng dao, thớt, chảo dầu hay nồi súp khi nấu ăn trong cái “máy giặt”, lặp lại mỗi ngày mười mấy tiếng, lặp lại mấy chục năm trời, mà vẫn đầy năng lượng vui cười liên tục, tôi nhận thấy từ khóa “outwork, mass, volume” của mình khiếm khuyết hẳn phần tận hưởng nó như “một phần của chuyến đi”, như cách Anna đã làm thật xuất sắc.
Thời gian đầu khi đăng kí đi thuyền, tôi không khỏi bất ngờ khi được biết thủy thủ đoàn chỉ có 3 người và khi vượt đại dương sẽ có thêm 1 thành viên. Cậu nhân viên tôi còn đùa: “Sinbad còn có 5 người!!!”. Vậy mà sau khi gặp Jasmine và Daniel, hai thành viên trẻ còn lại, tôi hiểu rằng có những việc tưởng nhiều và lớn vậy, nhưng chỉ cần có leader giỏi và một vài người chất lượng là đủ. Cô bé Jasmine mới chỉ 23 tuổi đã có tám năm kinh nghiệm đi thuyền buồm. Gương mặt còn trẻ măng cùng với dáng vẻ ngây thơ trong bộ sailing suit đối lập hẳn với bước đi nhanh nhẹn, tay chân dứt khoát mạnh mẽ mỗi khi cô thả neo thuyền hay phụ Gijis làm những việc mà tôi nhìn vào cũng chẳng hiểu, chỉ thấy cô bé rất ngầu. Jasmine còn giúp Anna nướng bánh mì tươi cho mọi người mỗi đêm để sáng ra có bánh nóng thơm phức, yến mạch còn dư cô sẽ làm món bánh blueberry muffin tôi tự cho là “huyền thoại”, tới nỗi khi tôi cập bến Iceland đã phải quay lại thuyền lấy thêm mấy cái để ăn trước khi Tecla đi tiếp hành trình qua Anh. Jasmine như một niềm vui trong trẻo của Tecla già dặn, một hình ảnh GenZ mà tôi chưa từng gặp ở xã hội hiện đại này.

Daniel xuất hiện sau một tuần, chàng trai trẻ người Tây Ban Nha với gương mặt và mái tóc xoăn bồng bềnh, một tổ hợp của đẹp trai, hoang dã và hiền lành. Một kỳ nghỉ lý tưởng của Daniel là ở trên đảo hoang “tự sinh tự diệt”. Nói vậy để dễ hình dung về Daniel. Cậu “hot” tới nỗi khi thuyền cập vào một địa điểm tắm nước nóng trong vịnh hẹp ở Iceland mọi người đều để ý cậu dù chẳng bóng bẩy như các chàng trai trên instagram. Có cô gái bồi bàn ở quầy bar đã tán tỉnh cậu trực diện mà cậu không hề hay biết, vì tâm hồn cậu chỉ có thiên nhiên biển cả hoang dã và những điều chân phương nguyên thủy. Tôi thích thú khi gặp những người như Daniel, cậu mang lại phiên bản của một người trẻ yêu thiên nhiên thực thụ, chấp nhận những điều chúng ta cho là “khổ cực”, đi khắp thế giới không để post hình khoe, mà chỉ để thỏa mãn tình yêu chân phương đó. Tôi để ý mỗi khi chúng tôi hiking trên đất liền, cậu sẽ chạy chiếc dinghie một mình đi khám phá các ngóc ngách của vịnh như một đứa trẻ tò mò. Trẻ trung và hồn nhiên như vậy, nhưng khi làm việc, Daniel tuyệt đối răm rắp nghe lời thuyền trưởng, bất kì một lệnh nhỏ nào cậu cũng làm nghiêm túc. Thời gian vượt biển vất vả cùng việc lái thuyền 12 tiếng một ngày, vậy mà khi thuyền cập bến, việc đầu tiên cậu làm là đi rửa dọn thuyền, sắp xếp lại sự ngổn ngang mà biển cả đã hất tung trong những ngày mưa gió, không thấy cậu ngơi nghỉ hay tỏ vẻ mệt mỏi gì, mặt cậu sáng bừng, mái tóc vẫn bồng bềnh trong gió.

Tôi thấy bản thân mình đang mất phương hướng, lên thuyền đi cùng mọi người một đoạn, tôi không hết bị mất phương hướng, nhưng tôi bình tâm với việc đó, và nghe lời Anna, xem nó như một phần hành trình của mình. Bản thân Gijs cũng có những áp lực từ công việc, anh ấy đã rất lo lắng khi lần đầu dẫn người Châu Á nhỏ bé đi thuyền buồm vượt biển, anh stress khi phải đếm tiền vì anh không thích việc đó, anh thở phào khi tiễn chúng tôi xuống đất liền Iceland rồi lại bất an ngay sau đó với một đoàn khách khác. Đoạn hội thoại cuối cùng của chúng tôi khi tôi quay về thuyền lấy thêm vài cái Muffin của Jasmine kết lại bằng câu nói của Gijs khi anh có một ngày để chuẩn bị cho đoàn khách ngày hôm sau: “For now, I’m just enjoying the day.”
Có thể tất cả chúng ta đều đang mất phương hướng theo cách riêng của mình. Như cách Gijs kể về việc ở thành phố đi siêu thị mua đồ cho hai đứa con nhỏ, và chợt thấy mình đứng tần ngần rất lâu giữa bao người qua lại, trong tay vẫn cầm giỏ đồ. Có lẽ sâu thẳm bên trong anh không thuộc về nơi ấy. Anh được làm từ tình yêu nguyên bản, mỗi lần chia tay đoàn khách nào anh cũng đều bồi hồi xúc động. Tôi nhìn thấy rõ điều đó trong mắt anh. Anh nói rằng, cho đến khi tôi không còn thấy buồn khi tiễn mọi người xuống Tecla và không thấy vui khi đón mọi người lên đó nữa, tôi sẽ nghỉ việc này. Câu nói đó càng thuyết phục tôi rằng: “outwork, mass, volume” mà không tận hưởng quá trình lao động đó, mà không có tình yêu cho những gì ta làm dù nó có sai hay thất bại, thì dần ta cũng sẽ lại lạc lối và đi xa ra khỏi giá trị cốt lõi của chính mình.
Tựa đề bài viết là “The hard-working people” như kiểu chúng ta hay thường tách riêng những người làm việc siêng năng như thể họ là một tập thể khác, đáng ngưỡng mộ, như thể làm việc siêng năng là phải vượt khó, phải chịu khổ, không được an nhàn sung sướng, làm ít hưởng nhiều như chúng ta thường muốn. Tôi hi vọng bài viết này khiến bạn bình thường hoá hardwork và hardship, như cách thuỷ thủ đoàn của Tecla đã cho tôi thấy, rằng đó mới là cách để chúng ta trân trọng cuộc đời này, và để sống một cuộc đời tròn vẹn, đầy ắp, giữa vạn điều bất toại nguyện xung quanh.
Vậy, có chăng chúng ta nên hỏi lại rằng: ta tiếp tục bịt mắt chạy theo tiền bạc, tình dục, các thú vui chơi giải trí như một đích đến cuối cùng, hay ta muốn mở căng đôi mắt để chứng kiến cuộc đời mình mỗi phút giây đều đẹp như nó chính là?

Một lần nữa, cảm ơn anh Hoàng Lê Giang đã tổ chức chuyến đi và lựa chọn những hành trình hiking đẹp tuyệt.
Anh Giang luôn chọn những chuyến đi không “sống ảo”, sự lựa chọn thuyền Tecla một phần đã giữ vững quan điểm này, khi hàng loạt những con thuyền buồm đỏ đẹp như tranh neo ngoài khơi chỉ để cho khách chụp hình post mạng xã hội càng ngày càng đông khách. Tecla là một trong vài chiếc thuyền buồm còn lại trên thế giới chở khách đi những hải trình thực thụ, không hào nhoáng nhưng mang đúng tinh thần của một chiếc thuyền ra khơi chỉ vì nó yêu biển cả mênh mông và những vùng vịnh hẹp hoang sơ đẹp như những chốn thần tiên.

Bình luận về bài viết này